Biên niên nhà văn Nguyên Ngọc – Văn Học Sài Gòn

Hôm nay, ngày 5.9.2021, kỷ niệm sinh nhật 90 tuổi của nhà văn Nguyên Ngọc. Ông là nhà văn, nhà báo, dịch giả, nhà nghiên cứu văn hóa và giáo dục. Nhiều năm phục vụ trong Quân đội Nhân dân Việt Nam, được phong hàm Đại tá. Sinh năm 1932. Quê quán: Quảng Nam. Tên thật: Nguyễn Văn Báu. Bút danh: Nguyên Ngọc, Nguyễn Trung Thành.

Nguyên Ngọc là một trong số ít nhà văn Nước Ta mà văn nghiệp không bị đứt đoạn bởi bất kỳ nguyên do nào : cuộc chiến tranh, dịch chuyển thời cuộc, tuổi tác …

Gia nhập Quân đội Nhân dân ( 1950 ), hầu hết hoạt động giải trí ở Tây Nguyên .

Trước năm 1962 (trước khi rời miền Bắc vào chiến trường miền Nam)

Tập kết ra miền Bắc ( 1954 ). Phóng viên quân đội. Viết tiểu thuyết Đất nước đứng lên dưới bút danh Nguyên Ngọc và được Trao Giải của Hội Văn nghệ Nước Ta ( 1955 ). Trong những truyện Nguyên Ngọc viết tiến trình này gây chú ý quan tâm là tập truyện ngắn Rẻo cao tạo được tiếng vang về văn phong ; truyện Mạch nước ngầm gây nhiều tranh cãi vì đã đề cập khác với nhận thức của số đông thời ấy về cách nhìn con người, kể cả con người có thành tích, thương hiệu .

Trước năm 1975 (trước khi chiến tranh kết thúc và đất nước tái thống nhất)

Hoạt động ở mặt trận Khu V viết văn với bút danh Nguyễn Trung Thành. Tác phẩm được thông dụng và nhiều người biết tới : Đường tất cả chúng ta đi ( bút ký, 1965 ), Đất Quảng ( 1971, tiểu thuyết, tập 1 ), Rừng xà nu ( tập truyện ký, 1969, Trao Giải Văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu, Trao Giải Hoa Sen của Hội Nhà văn Á Phi ) .

Trước năm 1986 (trước thời kỳ Đổi mới)

Là Đại biểu Quốc hội khóa IV, Bí thư đảng đoàn kiêm Phó tổng thư ký Hội Nhà văn Nước Ta ; viết và trình diễn bản Đề dẫn đàm đạo tại Hội nghị Nhà văn đảng viên ( từ 10.3 đến 12.3.1979 ) .
Trong Đề dẫn 1979 này, bên cạnh việc chứng minh và khẳng định những thành tựu của văn học thẩm mỹ và nghệ thuật góp phần vào công cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc bản địa, còn đề cập đến thực trạng ngưng trệ, khủng hoảng cục bộ của văn học : “ có nhiều sách nhưng không có tác phẩm gây được thành “ sự kiện văn học ” mới, sách viết ra không để lại được dấu vết thâm thúy, đậm nét trong đời sống niềm tin của xã hội ; thực trạng không ít thông dụng là “ người viết vẫn cứ viết nhưng không thật tin ở chính điều mình viết ra ”. “ Người là muối mà chính người lại không mặn thì biết lấy gì để muối người ”. Văn học, nói theo một cách nào đó là lòng tin. Không có lòng tin lớn thì không khi nào hoàn toàn có thể có văn học lớn .
Từ tình hình đó của văn học những năm đầu sau khi cuộc cuộc chiến tranh kết thúc, Đề dẫn nêu ra tâm lý : trách nhiệm của nghệ thuật và thẩm mỹ không chỉ là ở chỗ bộc lộ hiện thực như nó đã có, một hiện thực tĩnh tại, mà chính là ở chỗ diễn đạt hiện thực như là một cái gì hoàn toàn có thể đổi khác được và tu dưỡng lòng tin, sự khát khao mãnh liệt muốn thôi thúc sự biến hóa ấy .
Đề dẫn cũng đã mạnh dạn chỉ ra những nguyên do góp thêm phần vào sự “ ngưng trệ ” và “ khủng hoảng cục bộ ” của văn học. Đó là sự thô thiển lê dài trong công tác làm việc lý luận và phê bình văn học, trước hết ở một điểm rất cơ bản : ý niệm về công dụng của văn học. Quan niệm này đã dung tục hóa mối quan hệ giữa hiện thực và văn học, nó tuyệt đối hóa hiện thực, nó buộc văn học phải khiếp nhược trước hiện thực, buộc người nghệ sĩ phải khiếp nhược trước đời sống .
Quan niệm ấy hạ thấp văn học xuống thành một sự sao chép hiện thực, cho rằng “ hiện thực đã tốt đẹp đến mức không còn gì hoàn toàn có thể tốt hơn, đẹp hơn ”, từ đó mà gián tiếp phủ nhận năng lực tái tạo trở lại hiện thực của con người, của văn học. Quan niệm ấy từng bộc lộ thành chủ trương tuyệt đối hóa thể tài “ người thật, việc thật ” trong văn học, muốn lấy đó làm dòng chủ yếu, thậm chí còn dòng duy nhất của văn học nước ta .
Trong khi văn học bắt nguồn từ đời sống, nếu muốn Giao hàng trở lại đời sống thì nó phải phát minh sáng tạo ra một cái gì đó khác, mới mẻ và lạ mắt, chưa từng có, cao hơn về chất so với cái nguyên vật liệu đời sống cung ứng cho nó. Ví như con tằm ăn dâu thì phải nhả ra tơ, nếu nó lại nhả ra những cái lá dâu thì bản thân sự xuất hiện của nó trở thành không có ý nghĩa .
Đề dẫn 1979 cũng đã chỉ ra thực trạng tuyệt đối hóa sự chi phối tất yếu của chính trị so với văn học, trong khi chính văn học nghệ thuật và thẩm mỹ với sức mạnh riêng của nó đã làm nhiều mẫu mã thêm cho chính trị bằng những mày mò và phát minh sáng tạo của riêng mình, không sửa chữa thay thế được .

Chính những quan niệm thô thiển đó về mối quan hệ giữa văn học và thực tiễn, giữa văn học và chính trị đã tạo ra những định kiến xã hội đơn giản, dung tục đối với văn học, xói mòn năng lực thẩm mỹ của người đọc, thấm cả vào chính người cầm bút, xói mòn ý chí sáng tạo, dũng khí sáng tạo nghệ thuật và ý thức trách nhiệm xã hội đúng đắn của nhà văn, tạo nên sự cản trở vừa ở ngoài họ, quanh họ, vừa ở trong chính họ.Và, không thể nói không có sự liên hệ nào giữa các quan niệm thô thiển và định kiến dung tục đang diễn ra với lối làm ăn tệ hại, thiếu phẩm chất rất đáng trách trong một số người cầm bút.

Trước năm 1995 (trước khi nghỉ hưu)

Phó tổng thư ký Hội Nhà văn Nước Ta, Tổng biên tập báo Văn Nghệ, Trưởng ban Sáng tác Hội Nhà văn Nước Ta. Đóng góp lớn vào thời kỳ sôi động, bùng cháy rực rỡ nhất của báo Văn Nghệ, bằng chủ trương : mở đường cho hiện thực tràn vào văn học, thức tỉnh văn học sau giấc ngủ căng thẳng mệt mỏi hậu chiến và bao cấp .
Khôi phục thể loại phóng sự đã từng nổi tiếng vài chục năm trước đó với những cây bút Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang, Tam Lang. Đánh thức dòng truyện ngắn với cách viết mới, lạ. Triển khai loạt bài lý luận về văn nghệ và chính trị, về văn nghệ và hiện thực .
Hàng loạt tên tuổi văn học mới đã Open từ báo Văn Nghệ thời kỳ này : Nguyễn Huy Thiệp, Trần Huy Quang, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Hoàng Minh Tường … Tờ báo của Hội Nhà văn Nước Ta, lần tiên phong sau bao nhiêu năm, được người đọc xếp hàng chờ mua, số lượng in lên tới hơn vạn bản … Góp phần quan trọng vào việc xét trao những phần thưởng văn học xứng danh của thời kỳ đầu Đổi mới .
“ Tôi cũng như nhiều nhà văn trẻ, ai cũng yêu dấu, kính trọng tài năng, tận tâm của Nguyên Ngọc, nhưng đôi lúc lo lắng, do dự trao đổi với nhau : “ Sao anh ấy cực đoan thế nhỉ, cực đoan cả trong lý luận tâm lý cả trong phong thái sống ”, nhưng rồi lại cười xòa vui tươi : “ Là Quảng Nam hay cãi ấy mà ! ” – nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Trai nguyên Phó tổng biên tập báo Văn Nghệ .
Nhà văn Bảo Ninh thì san sẻ : “ Hình như càng năm càng tuổi, thầy Ngọc của tôi càng muốn sống nhiều hơn trong khoảng trống đường trường. TP HCM – Gia Định, mũi Cà Mau, miền Tây, miền Đông, Quảng Trị, Thừa Thiên, miền Nam Trung Bộ, những tỉnh huyện đồng bằng miền Bắc, vùng núi non biên giới, hải đảo … từ năm 1975 tới nay có còn ngả đường nào, có còn miền quê nào của quốc gia mà ông chưa dọc ngang trải qua. Ông đi nhiều nhưng không riêng gì để ngao du sơn thủy, không đi chỉ để chiêm ngưỡng và thưởng thức cảnh sắc, không lang bang phiêu bạt chỉ để nhìn ngó nghe ngóng lớt phớt, mà đi như vậy là cách ông nhập thân, hoặc còn hơn thế nữa, lao vào vào với tình hình quốc gia và dân tình để hoàn toàn có thể không ngừng tâm lý và viết, thực thi nghĩa vụ và trách nhiệm nhà văn theo đúng với tín niệm nhân sinh và văn chương của ông ”

Từ năm 1995 (sau khi nghỉ hưu)

Tham gia tích cực trong nghành văn hóa truyền thống, giáo dục, gìn giữ truyền thống văn hóa truyền thống dân tộc bản địa và chấn hưng giáo dục Nước Ta. Là thành viên chủ chốt trong những hoạt động giải trí : Quỹ Văn hóa và Trao Giải Văn hóa Phan Châu Trinh ; Dự án và Trao Giải Sách Hay ; Đại học Phan Châu Trinh ; Viện Phan Châu Trinh .
Sách dịch đã in : Độ không của lối viết ( Rolland Barthes ), Nghệ thuật tiểu thuyết ( Milan Kundera ), Văn học là gì ? ( Jean – Paul Sartre, NXB Văn học 2013 ), Rừng, Đàn bà, Điên loạn ( Jacques Dournes, NXB Hội Nhà văn 2013 ) .
Sách viết đã in : Tản mạn nhớ và quên, NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí Minh, 2004 ; Nghĩ dọc đường, NXB Văn Nghệ Thành Phố Hồ Chí Minh, 2005 ; Lắng nghe đời sống, NXB Văn Nghệ Thành Phố Hồ Chí Minh, 2006 ; Bằng đôi chân trần, NXB Văn Nghệ TP.Hồ Chí Minh, 2008 .

Bút ký Các bạn tôi ở trên ấy viết về Tây Nguyên của ông (NXB Trẻ 2013) được giải thưởng văn xuôi năm 2013 của Hội Nhà văn Hà Nội. Được xem là một chuyên gia về Tây Nguyên, trong buổi hội thảo vào tháng 4.2009 về vấn đề khai thác bauxite ở Việt Nam, ông biểu lộ chưa đồng tình với chính sách của Chính phủ.

Cuốn Có một con đường mòn trên Biển Đông của ông ( NXB Trẻ tái bản, năm trước ) được dịch ra tiếng Nhật và phát hành tại Nhật Bản tháng 10.2017 .

THANH NGUYỄN

Người Đô Thị / Vanvn