‘Thẻ vàng’ IUU có tác động kinh tế như nào với ngành thủy sản Việt Nam?

Chú thích ảnh
Tàu khai thác hải sản của ngư dân thị trấn Khánh Hải (huyện Ninh Hải, Ninh Thuận) trên đường về bến. Ảnh minh họa: Nguyễn Thành/TTXVN

Sự kiện được tổ chức triển khai theo hình thức họp trực tuyến trong quá trình triển khai giãn cách xã hội theo niềm tin của Chỉ thị 16 / CT-TTg của Thủ tướng nhà nước .
Phát biểu khai mạc hội thảo chiến lược, bà Nguyễn Thị Thu Sắc, quản trị Uỷ ban Hải sản, Phó quản trị Thương Hội VASEP cho biết, thủy hải sản là loại sản phẩm xuất khẩu lớn thứ 5 của Nước Ta về giá trị, chiếm khoảng chừng 4 % kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Xuất khẩu thủy hải sản của Nước Ta trong những năm gần đây xê dịch từ 8,5 đến gần 9 tỷ đô la Mỹ ( USD ) / năm ; trong đó thủy hải sản nuôi trồng góp phần từ 60 – 65 %, thủy hải sản khai thác chiếm từ 35 – 40 % giá trị .
Là nước xuất khẩu thủy hải sản đứng thứ 3 trên quốc tế, những năm gần đây, Nước Ta đã chú trọng đến việc tăng trưởng vững chắc ngành thủy hải sản. Tuy nhiên, với đặc trưng nghề cá nhỏ lẻ, Nước Ta đang phải đối lập với một thử thách lớn tương quan đến cảnh báo nhắc nhở thẻ vàng IUU ( chống khai thác thủy hải sản phạm pháp, không báo cáo giải trình và không theo lao lý ) của Ủy ban châu Âu ( EC ) từ tháng 10/2017 .

Bà Sắc cũng cho biết, thẻ vàng IUU của EC đã khiến cho xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường này sụt giảm liên tục từ năm 2017 đến nay. So sánh kết quả xuất khẩu 2017-2019, sau 2 năm chịu tác động từ thẻ vàng IUU, kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang thị trường các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU) giảm 12%, tương đương 183,5 triệu USD. Theo đó, tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thủy sản giảm trên 10% sau 2 năm, tương đương giảm 43 triệu USD, trong đó, bạch tuộc giảm mạnh nhất 37%, nhuyễn thể hai mảnh vỏ giảm 11%, cá ngừ giảm gần 2%, cua giảm 11%. Xuất khẩu các sản phẩm nuôi trồng sang EU cũng giảm 13% từ năm 2017 đến năm 2019.

Xu hướng giảm này tiếp tục kéo dài hơn nữa vào năm 2020, đặc biệt do bị tác động kép bởi dịch COVID-19, thẻ vàng IUU và Brexit, xuất khẩu thủy sản sang thị trường này giảm 5,7% so với năm 2019, chỉ đạt 959 triệu USD.

Kể từ năm 2019, EU đã tụt từ vị trí thứ 2 xuống vị trí thứ 4 trong những thị trường nhậu khẩu thủy hải sản Nước Ta, sau Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc. Tuy nhiên, EU vẫn là thị trường lớn có tính khuynh hướng và chi phối so với những thị trường khác và là đối tác chiến lược quan trọng với ngành thủy hải sản Nước Ta .
Bà Mona Sur, Giám đốc Ban Môi trường, Tài nguyên và Kinh tế biển khu vực Đông Á-Thái Tỉnh Bình Dương ( World Bank ) cho biết, để có nhìn nhận chi tiết cụ thể về những rủi ro tiềm ẩn này, Thương Hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản Nước Ta ( VASEP ) phối hợp với những chuyên viên của Đại học Nha Trang và Đại học Kinh Doanh Copenhagen ( Đan Mạch ) để thực thi Báo cáo “ Đánh giá tác động ảnh hưởng kinh tế tài chính từ nghiên cứu và phân tích thương mại của việc không tuân thủ lao lý chống khai thác IUU : Trường hợp Nước Ta ”. Báo cáo có sự giám sát của Ngân hàng Thế giới ( World Bank ) và được hỗ trợ vốn bởi hai quỹ tín thác do Ngân àng Thế giới quản trị, gồm Chương trình Toàn cầu về Thủy sản ( PROFISH ) và Chương trình Vì nền kinh tế tài chính xanh ( PROBLUE ) .
TS. Nguyễn Tiến Thông, đại diện thay mặt Trường Đại học Kinh Doanh Copenhagen, Đan Mạch, Chuyên gia Tư vấn của VASEP cho biết, báo cáo giải trình có trên 60 trang, gồm 5 nội dung cơ bản là nhìn nhận tình hình sản xuất, tiêu thụ thủy hải sản Nước Ta ; đề cập những pháp luật về chống khai thác IUU của những thị trường những nước thuộc Liên minh châu Âu, Mỹ, Nhật Bản cùng những nước khác và Nước Ta ; nghiên cứu và phân tích dòng chảy thương mại thủy hải sản trong tiến trình 2007 – 2019 để nhìn nhận tác động ảnh hưởng kinh tế tài chính của thẻ vàng IUU so với Nước Ta. Trên cơ sở đó nhìn nhận định lượng về tổn thất kinh tế, ảnh hưởng tác động thời gian ngắn và trung hạn trong trường hợp bị phạt thẻ đỏ IUU .