PGS.TS.TTND. Nguyễn Hồng Sơn:…Để kiến trúc có thể trở thành “Liều thuốc quý” – Tạp chí Kiến Trúc

Đó là chia sẻ của PGS.TS.TTND Nguyễn Hồng Sơn về vai trò quan trọng của kiến trúc trong điều trị cho người bệnh. Hơn 40 năm gắn bó với ngành Y, Ông bày tỏ mong muốn về một “Không gian kiến trúc bệnh viện để người dân đến và có cảm giác “được” điều trị – thay vì “bị” điều trị như hiện nay”.

Trân trọng giới thiệu với bạn đọc cuộc trò chuyện xung quanh chủ đề kiến trúc bệnh viện với Thiếu tướng – PGS.TS.Thầy thuốc ND Nguyễn Hồng Sơn.

Thiếu Tướng PGS.TS.TTND Nguyễn Hồng Sơn: Trước hết, tôi không phải là KTS và cũng không hoạt động trong lĩnh vực thiết kế, quản lý các công trình y tế nên không dám đánh giá, nhận xét về kiến trúc bệnh viện (BV) ở Việt Nam. Là thầy thuốc làm việc trong BV nên nhiều khi tôi cũng có những trăn trở với các nhà thiết kế về kiến trúc BV. Ngoài câu chuyện chất lượng chuyên môn, chất lượng dịch vụ người bệnh, khi nào chúng ta có được một kiến trúc không gian BV để người bệnh có cảm giác “được” điều trị thay bằng “bị” điều trị trong những cơ sở y tế hiện nay. Chính vì vậy, kiến trúc BV là một điều thú vị mà tôi thích và quan tâm.

Nói về kiến trúc BV ở Việt Nam, có lẽ cũng nên bắt đầu với lịch sử của đất nước ta, có thể chia ra theo các giai đoạn lịch sử như sau:

Thời Pháp thuộc : Đầu tiên là người Pháp cho xây những BV Giao hàng quân đội viễn chinh Pháp ở những TP lớn, sau đó do nhu yếu tăng trưởng, người Pháp liên tục kiến thiết xây dựng những BV dân sự cho người Pháp và dân địa phương, những BV này thường mang tên người Pháp : Ở Miền Bắc phải kể đến : BV 108 ( TP. Hà Nội – ĐồnThủy – Lanessan-1891 ) ; BV Saint Paul ( 1900 ) ; BV Việt Đức ( Indigène du Protectorat – Phủ Doãn-Việt Đức – 1904 ) ; BV K ( Radium Đông Dương-1923 ) ; BV Bạch Mai ( Rene ’ Robin-1934 ) … Ở Miền Nam có : BV Nhi Đồng 2 ( Grall, Đồn đất – 1879 ) ; BV Chợ Rẫy ( Hospital Municipal de ChoLon-1900 ) ; BV Mắt ( Saint Paul-1930 ), BV 175 ( Roques – Tổng Y viện Cộng Hòa – 1952 ) … BV cổ nhất của Hồ Chí Minh là BV Chợ Quán ( 1862 ) do những nhà hảo tâm trong nước kiến thiết xây dựng .
Xuất phát từ những mục tiêu quân sự chiến lược nên những BV do người Pháp xây thường được lựa chọn ở những vị trí đắc địa, gần trường bay, bến cảng, giao thông vận tải thuận tiện. Khuôn viên thoáng rộng, khoáng đạt. Với kinh nghiệm tay nghề của đội quân viễn chinh khắp quốc tế, một nền kiến trúc đẳng cấp và sang trọng và trình độ y tế xếp vào loại nhất quốc tế ngày đó nên dù vẫn mang đặc thù dã chiến nhưng so với Nước Ta ngày ấy đã là những khu công trình y tế vĩ đại, nhiều điều tất cả chúng ta vẫn đáng học hỏi cho đến giờ đây. Sau đó là những BV dân sự được kiến thiết xây dựng ở những TP lớn, mang đậm dấu ấn, vị thế của một nước lớn .
Trong thời hạn này, người Hoa ở Hồ Chí Minh cũng kiến thiết xây dựng nhiều BV : BV An Bình ( Luc Aup – Triều Châu – 1885 ) ; BV Nguyễn Tri Phương ( Quảng Đông – 1907 ) ; BV Nguyễn Trãi ( Phúc Kiến – 1909 ) ; Trung tâm Chấn thương chỉnh hình ( He-Sùng Chính-1920 )
Thời kỳ sau 1954 quốc gia bị chia cắt thành hai miền : Ở phía Bắc, nhiều BV được thiết kế xây dựng mới với sự giúp sức của những nước thuộc “ phe ” XHCN : Việt-Xô ( TP.HN ) ; Việt – Đức ( Thành Phố Hà Nội ), Việt – Tiệp ( Hải Phòng Đất Cảng ), Nước Ta – Ba Lan ( Vinh ), Nước Ta – Cu Ba ( Quảng Bình ) … Chính thế cho nên, những hình thái và qui mô kiến trúc BV rất là đa dạng và phong phú và tạo ra sức mạnh y tế của Miền Bắc XHCN lúc đó .

Ở Phía Nam, do nhu cầu của chiến tranh mở rộng và ý đồ chiến thuật, quân đội Mỹ đã triển khai hàng loạt các BV quân đội ở các TP: Đà Nẵng, Nha Trang, Bình Định, Biên Hòa, Cần Thơ, Tiền Giang và Sài Gòn … vừa phục vụ điều trị thương binh, vừa phục vụ nghiên cứu khoa học. Thập kỷ 70, Nhật xây lại BV Chợ Rẫy (1973), Phu nhân tổng thống VNCH khởi xướng xây BV Vì Dân (Thống Nhất-1970). Đây là hai BV lớn và hiện đại bậc nhất thời ấy. Điều đặc biệt là BV Vì Dân được thiết kế bởi một người gốc Huế: KTS Trần Đình Quyền ( 1932). Ông đã tham gia rất nhiều dự án xây mới và cải tạo các BV ở Sài Gòn và được mệnh danh “cha đẻ của các BV” và có lẽ ông cũng là người có nhiều kinh nghiệm nhất trong thiết kế BV ở Việt Nam.
Thời kỳ sau khi thống nhất đất nước 1975: Đây là thời kỳ khó khăn nhất của Y tế Việt Nam. Hầu hết là việc sửa chữa và nâng cấp các BV, có ba BV được nước ngoài tài trợ: BV Nhi Trung Ương Hà Nội (Nhi Thụy Điển -1981), BV Uông Bí (1981), BV Nhi Đức Hải Phòng (1977). Các công trình này hoàn toàn do KTS nước ngoài thiết kế, bàn giao cho Việt Nam sử dụng.

Thời kỳ hội nhập, Open : Đây hoàn toàn có thể được gọi là thời kỳ “ bùng nổ ” BV ở Nước Ta, kinh tế tài chính xã hội tăng trưởng, chủ trương y tế được chăm sóc nhiều hơn nên hàng loạt những BV Tỉnh, Huyện, Ngành sinh ra. Đặc biệt là khi chủ trương chủ xã hội hóa, hàng loạt những BV tư nhân và vốn quốc tế góp vốn đầu tư đã tạo ra một toàn cảnh rất là đa dạng và phong phú về kiến trúc BV. Hệ thống BV tư nhân Vinmec cũng đã tạo ra sự cải tiến vượt bậc đáng kể. Gần đây nhất, nhà nước đã triển khai Đề án 125, kiến thiết xây dựng 5 BV qui mô lớn Việt Đức, Bạch Mai 1000 giường ( Hà Nam ), Nhi Đồng 3, Ung bướu 1000 giường ( TP TP HCM ), Viện Chấn thương chỉnh hình 500 giường, BVQY 175 ( TP Hồ Chí Minh ). Hầu hết là do tư vấn phong cách thiết kế quốc tế thực thi .

Phóng viên: Hiện nay số lượng BV đã được đầu tư nhiều hơn, cơ sở vật chất tốt hơn, theo ông, những thiết kế kiến trúc-tổ chức không gian BV hiện nay có đáp ứng được nhu cầu đặc thù của công tác khám chữa bệnh?

Thiếu Tướng PGS.TS.TTND Nguyễn Hồng Sơn: Cho đến nay, toàn quốc có khoảng 1365 BV (không kể hệ thống BV Quốc Phòng, Công An) trong đó có 248 BV tư nhân. Như trên đã nói, sự bùng nổ của các loại hình BV đã tạo ra sự bùng nổ của kiến trúc BV. Mặc dù đã có những tiêu chuẩn thiết kế các BV được ban hành nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập – Phải khẳng định một số BV của chúng ta đã đạt đẳng cấp (tiêu chuẩn) quốc tế nhưng nhìn chung, khối các BV cấp Tỉnh, Huyện mới chỉ đáp ứng cấp độ cơ sở khám, chữa bệnh trong điều kiện hiện nay.

Tôi cũng chưa rõ những trường ĐH Kiến trúc, Xây dựng ở Nước Ta đã có Bộ môn Thiết kế BV không ?. Thực tế ở quốc tế đã có rất nhiều những chuyên viên chuyên phong cách thiết kế BV, có rất nhiều ấn phẩm về TKBV được bày bán trên thị trường sách quốc tế. Tạp chí Sức Khỏe toàn thế giới ( Healthcare Global-2015 ) đã bầu chọn 8 Thiết kế BV nổi tiếng nhất quốc tế ( The world’s 8 most architecturally beautifull hospital ) : Royal Children’s Hospital ( Melbourne, Victoria, nước Australia ) ; Community Hospital of the Monterey Peninsula ( Monterey, CA, USA ) ; Arksur University Hospital ( Lorenskog Norway ) ; Florida Hospital Waterman ( Tavares FL, USA ) ; Winnie Palmer Hospital for Women and Children ( Orlando FL, USA ) ; Harlem Hospital ( Manhattan NY, USA ) ; The London Clinic ( London, UK ) ; Providence Holy Cross Medical Center ( Mission Hill, CA, USA ). Nghiên cứu 8 BV đẹp nhất quốc tế này sẽ cho tất cả chúng ta thấy nhiều yếu tố cần đặt ra trong quan điểm, tiêu chuẩn cho phong cách thiết kế BV ở Nước Ta lúc bấy giờ. Cũng vì thế, sẽ rất khó cho tôi để vấn đáp thắc mắc này .

Phóng viên: Từ góc nhìn của một BS, theo ông cần phải làm gì, tác động như thế nào và những tiêu chí gì để nâng cao chất lượng thiết kế BV?

Thiếu Tướng PGS.TS.TTND Nguyễn Hồng Sơn: Việt Nam đã hội nhập ngày càng sâu, rộng, vì vậy thiết kế BV ở Việt Nam cũng phải cập nhật theo những chuẩn hóa, xu hướng BV thông minh của thế giới (Smart Hospital – BVTM). Trên thực tế, Chính phủ (Bộ Xây dựng-Bộ Y tế) cần thống nhất một tiêu chuẩn khung cho các Qui mô, loại hình BV. TKBV là một loại hình thiết kế đặc thù, tổng hòa, tích hợp nhiều nội dung, chính vì vậy, Chủ đầu tư, người sử dụng (quản lý BV) và các Bộ môn phải phối kết hợp thật chặt chẽ, tỷ mỉ, chi tiết…tâm huyết và vì người bệnh thì mới có một công trình ”ĐẸP”. Tôi quan niệm về BV “ĐẸP” là như vậy.

Tùy theo qui mô, mô hình BV nhưng thông số kỹ thuật ( Modul ) cơ bản phong cách thiết kế BV cần chú trọng : 1. Modul Phòng khám bệnh – Cấp cứu – Hồi sức – Phòng mổ ; 2. Modul Chẩn đoán hình ảnh ; 3. Modul Labo ; 4. Modul bệnh phòng ; 5. Modul Phục hồi tính năng ; 6. Modul quản trị ( những cơ quan bảo vệ ) ; 7. Modul CNTT ( Telemedicine, bệnh án điện tử … ). Các modul hoàn toàn có thể hoạt động giải trí độc lập nhưng kết nối trong một tổng thể thống nhất và cũng là cơ sở cơ bản cho việc tiến tới BVTM mà không bị phá vỡ kiến trúc toàn diện và tổng thể. Thời đại 4.0, BVTM sẽ là thành phần quan trọng của nền kinh tế tài chính, không phải những nước to lớn, giàu sang mới hoàn toàn có thể tăng trưởng nền y học số. Y học số với ứng dụng tài liệu lớn, trí tuệ tự tạo, robot, quản trị theo dây truyền công suất ( Work flow ) sẽ đem lại chất lượng mới cho chăm nom sức khỏe thể chất người bệnh, quy đổi từ y học truyền thống lịch sử sang y học tài liệu, đúng mực. Bệnh nhân không riêng gì được chăm nom tại BV mà còn mọi lúc, mọi nơi, tự chăm nom, con người sẽ trở thành hạt nhân của nền y tế dữ thế chủ động, được thưởng thức và quan hệ thân thiện với BV. Đương nhiên, mặc dầu thế nào cũng không hề thay thế sửa chữa được vai trò của người thầy thuốc .
Kiến trúc BV không chỉ là một khu công trình kiến trúc thường thì, nó yên cầu Tâm-Trí-Nhân rất lớn của KTS và những đơn vị chức năng tư vấn phong cách thiết kế. Những người bệnh trong cơn đau đớn và sợ hãi, nếu kiến trúc tạo ra cho người bệnh cảm xúc được điều trị ” thì cũng đã là một liều thuốc quí .

Phóng viên: Hiện nay Hội KTS Việt Nam đang tổ chức cuộc thi Bệnh viện dã chiến. Được biết ông đã tham gia nhiều Dự án tương tự, ông có thể chia sẻ kinh nghiệm với các KTS về ý tưởng thiết kế bỏ và công năng các BV dã chiến?

Thiếu Tướng PGS.TS.TTND Nguyễn Hồng Sơn: BV dã chiến (BVDC) cũng có rất nhiều loại hình, hoàn toàn phụ thuộc vào yêu cầu đề bài đặt ra: Chức năng, nhiệm vụ, BV đa khoa, chuyên khoa, thời bình, thời chiến, thiên tai, thảm họa (ngắn hạn, dài hạn), vị trí, địa hình. Tuy là BVDC nhưng vẫn phải tạo ra tính đồng bộ, liên hoàn, hợp lý (mặt bằng công năng) đảm bảo cho chức năng hoạt động của BVDC. Qui mô, tính chất, tính cơ động (lều bạt hoặc container hoặc phối hợp). Trong điều kiện hiện nay, CNTT (Telemedicine) cũng có một vai trò hữu hiệu với BVDC nhưng chắc chắn không thể thay thế được con người. Bên cạnh đó những vấn đề rất quan trọng đi cùng là: Năng lượng, nguồn nước và xử lý môi trường… Đó là những vấn đề cơ bản cần được quan tâm trong thiết kế BVDC hiện nay.

P/v: Trân trọng cảm ơn Thiếu tướng – PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn về cuộc trò chuyện thú vị này!

Thảo Nguyên (thực hiện)

( Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 04-2020 )